Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

Áp suất

- Áp suất: Thường tốc độ của dòng chảy (số lít chất lỏng qua 1m2 màng trong 1h) sẽ tăng cùng với sự gia tăng áp suất cho đến khi đạt đến giá trị (tốc độ) cực đại. Nếu áp suất tăng lên cao hơn nữa thì dòng chảy sẽ giảm. Người ta đề nghị tốc độ dòng chảy nên được điều chỉnh từ 4 - 5 lít/phút, tương ứng với hiệu suất PI1 - PI2 ở trong khoảng 0.5 - 3bar. Áp suất dòng vào lớn nhất (PI1max) là Để có thêm thông tin về các dịch vụ nâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo…  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
b. Các kiểu siêu lọc : có ba kiểu hệ thống siêu lọc
- Kiểu một bước (single pas operation)
Hình 3.2: Kiểu một bước
- Kiểu lô (batch operation): Chất lỏng được tuần hoàn qua màng đến nồng độ của dịch cô đặc ở trong chậu chứa đạt được như yêu cầu .

Hình 3.3: Kiểu lô
 - Kiểu thể tích không đổi (constant volume operation): Dòng chất lỏng được cung cấp liên tục để thể tích ở trong chậu chứa không thay đổi và chất lỏng được tuần hoàn qua màng đến nồng độ dung dịch cô đặc ở trong chậu chứa đạt được như yêu cầu.
Hình 3.4: Kiểu thể tích không đổi
c. Những thuận lợi của phương pháp siêu lọc
- Có thể lựa chọn màng thích hợp với từng mục đích cụ thể.
- Đối với enzyme: enzyme có thể cô đặc 25 lần mà không bị mất hoạt tính.
- Quá trình siêu lọc vừa làm cô đặc, vừa tinh sạch được enzyme. Trong quá trình thực hiện nếu thêm nước vào thì độ tinh sạch của enzyme càng cao.
- Trong quá trình siêu lọc, nhiệt độ cao có thể làm mất hoạt tính của enzyme, do đó nhiệt độ 10 - 20ºC được xem là khoảng nhiệt độ thích hợp nhất cho năng suất cao mà không làm mất hoạt tính enzyme. Quá trình siêu lọc có thể thực hiện tốt ở nhiệt độ thấp (5ºC).
3.1.2 Phương pháp kết tủa
- Nguyên tắc: Dựa trên tính hoà tan. Điểm đẳng điện của đa số protein thấp hơn pH = 7 do đó trong điều kiện sinh lý, các phân tử protein có thừa điện tích âm đã kết hợp với các đầu mang điện tích dương của phân tử nước lưỡng cực, cũng như các ion dương khác có trong dung dịch. Sự kết hợp với nước tạo ra một lớp nước bao quanh phân tử protein và cản trở sự kết tủa của chúng và để có thể kết tủa được các enzyme thì ta nhất thiết phải phá vỡ lớp nước liên kết xung quanh phân tử này bằng cách bổ sung vào dung dịch các dung môi hoặc các hoá chất ưa nước có ái lực mạnh hơn protein để lôi kéo nước ra khỏi phân tử protein đó, giúp cho protein tủa xuống.
- Heinicker và Gortner đã dùng acetone để kết tủa bromelain. Bromelain trong dung dịch nước rất nhạy cảm với các dung môi hữu cơ, do đó để sự kết tủa đạt hiệu quả cao thường tiến hành trong điều kiện lạnh. Như vậy dịch dứa phải được làm lạnh ở 0ºC đến 4ºC và acetone tinh khiết ở - 20ºC. Ethanol cũng được sử dụng để làm kết tủa bromelain và cũng phải giữ ở nhiệt độ thấp. Sau khi thu được kết tủa, tủa bromelain phải rửa bằng acetone và làm khô thật nhanh để bromelain không bị biến tính.
- Thông thường những yếu tố chính có thể ảnh hưởng đến hiệu suất và chất lượng của chế phẩm enzyme đó là:can dien tu

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét