Thứ Tư, 28 tháng 9, 2011

Gốc tự do Hydroxy

Khi insulin không được tiết ra đầy đủ hay tác dụng của insulin bị giảm sút, glucose không được đưa vào tế bào sẽ tăng cao trong máu gây ra bệnh đái tháo đườnĐể có thêm thông tin về các dịch vụ nâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo…  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.
         Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy sự tham gia của tự do gốc trong sự khởi đầu của bệnh đái tháo đường và quan trọng hơn trong phát triển các biến chứng đái tháo đường.
2.2.4 Các gốc tự do và lão hóa
         Con người sinh ra, trưởng thành, suy yếu bệnh hoạn rồi từ trần, đó là chu kỳ “Sinh Lão Bệnh Tử” theo luật thiên nhiên  mà ta đã chấp nhận từ nhiều ngàn năm.
         Lý thuyết về quá trình lão hóa được nhiều nhà khoa học chấp nhận từ trước đến nay cho rằng nguyên nhân của quá trình lão hóa nằm trong các hoạt động không được kiểm soát của các “gốc tự do”. Quá trình lão hóa gắn liền với sự xuất hiện ồ ạt của các gốc tự do.
         Phân tử có gốc tự do được phát sinh từ các phản ứng hóa học trong cơ thể là một yếu tố quan trọng làm cho tốc độ lão hóa của tế bào xảy ra nhanh hơn. Hút thuốc lá và có thể các chất phụ gia trong thực phẩm cũng là những nguyên nhân làm phát sinh các phân tử có gốc tự do, đẩy nhanh quá trình lão hóa.Chương I
GIỚI THIỆU VỀ GỐC TỰ DO
…………..o0o…………..

1.1 Lịch sử hình thành gốc tự do
         Gốc tự do có vai trò rất lớn trong hóa sinh và công nghiệp, song cũng là thủ phạm của nhiều loại bệnh tật.
         Gần đây, người ta nói nhiều về gốc tự do. Chúng tấn công vào màng tế bào, các phân tử protein, các hạt thể, tăng nhanh quá trình lão hóa cơ thể và kích thích sự phát triển bệnh ung thư, gây ra chứng tắc động mạch, bệnh alzheimer, bệnh tim v,v… Điều nguy hại là các gốc tự do luôn tồn tại trong cơ thể.
         Gốc tự do là các nguyên tử hoặc phân tử với một electron chưa cặp đôi có hoạt tính rất cao. Các electron này có xu hướng cặp đôi với một electron khác để tạo liên kết hóa học. Nó có thể phản ứng với gốc tự do khác hoặc phân tử trung hòa. Như vậy, gốc tự do này có thể biến các phân tử ban đầu trung hòa trở thành gốc tự do. Tác dụng kiểu con bài đômino sẽ tạo ra phản ứng dây chuyền nhanh chóng.
         Gốc tự do được nhà hóa học Nga Do Thái Moes Gomberg phát hiện đầu tiên vào năm 1900. Phát minh về gốc tự do của Gomberg được xem là một trong những phát minh quan trọng nhất trong ngành hóa học hữu cơ của thế kỷ XX.
         Năm 2000, một hội thảo quốc tế tại Trường Đại học Michigan để kỷ niệm 100 năm ngày phát minh ra gốc tự do được tổ chức tại Trường này để đánh giá công lao đóng góp to lớn Gomberg cho một lĩnh vực rất quan trọng của hóa học hữu cơ.

1.2 Sơ lược về gốc tự do
         Gốc tự do là những phân tử hay những mảnh vỡ của phân tử có một điện t lẽ ở lớp ngoài cùng. Do sự có mặt của điện tử này mà các gốc tự do có một thuộc tính đặc biệt là có khả năng oxy hóa rất cao. Gốc tự do (chất oxy hóa) luôn luôn được sinh ra trong cơ thể con người và cũng có vai trò tích cực đối với cơ thể. Oxy mà ta hít thở hàng ngày là chất cần thiết nhưng chính nó cũng trở thành gốc tự do (khi đó gọi là oxy đơn bội). Hiện tượng thực bào là hiện tượng vi khuẩn, virut bị tế bào bạch cầu tiêu diệt trong cơ thể, hoặc hiện tượng hô hấp trong tế bào, hoặc cơ chế giải độc ở gan đều là các hoạt động làm sinh ra gốc tự do. Điều quan trọng là trong cơ thể khoẻ mạnh, gốc tự do sinh ra có giới hạn, không quá thừa để gây hại. Bởi vì bên cạnh các gốc tự do luôn có hệ thống các chất chống oxy hoá cân bằng, vô hiệu hoá các gốc tự do có hại. Chỉ khi nào gốc tự do sinh ra quá nhiều và hệ thống chất oxy hoá nội sinh không đủ sức cân bằng, cơ thể sẽ sinh ra rối loạn bệnh lý. Người ta đã chứng minh, khi có sự tăng quá nhiều gốc tự do sẽ gây ra tình trạng viêm nhiễm ở các cơ quan, các bệnh lý như tim mạch, ung thư và nhất là sớm bị lão hoá.
         Môi trường ô nhiễm, tình trạng  stress, sai lầm trong dinh dưỡng, thói quen lạm dụng độc chất (như hút thuốc, uống rượu, kể cả dược phẩm) làm tăng gốc tự do gây lão hóa. Để chống lại sự bội tăng các gốc tự do sinh ra quá nhiều mà hệ thống "chất chống oxy hoá nội sinh" không đủ sức cân bằng để vô hiệu hoá, các nhà khoa học đặt vấn đề dùng các "chất chống oxy hóa ngoại sinh" (tức là từ bên ngoài đưa vào cơ thể) với mục đích phòng bệnh, nâng cao sức khỏe, chống lão hóa đó là beta-caroten, chất khoáng selen, các hợp chất flavonoid, Co-enzyme Q10, khoáng kẽm, polyphenol... có từ nguồn thiên nhiên là thực phẩm như rau cải, trái cây tươi và một số loại dược thảo. Beta-caroten có nhiều trong quả gấc, các loại rau, củ quả có màu đỏ cam như cà chua, cà rốt.
1.3 Một vài gốc tự do
         Có rất nhiều loạiĐể có thêm thông tin về các dịch vụ nâng ngựcnâng mũivá màng trinhthẩm mỹ vùng kínthẩm mỹ môithẩm mỹ mắtthẩm mỹ khuôn mặtthu hẹp âm đạo…  và được tư vấn cụ thể về các dịch vụ xin quý khách hàng liên hệ tại đây.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét